Truyền thuyết bài thuốc quý về hoa thược dược
Hoa thược dược cùng họ với hoa mẫu đơn. Hoa thược dược được coi là “Hoa tướng” vì công dụng chữa bệnh tuyệt vời của loài hoa này.
Hoa thược dược thuộc chi cúc, cùng họ với hoa mẫu đơn. Hoa thược dược được coi là “Hoa tướng” vì công dụng chữa bệnh tuyệt vời của loài hoa này.
Nguồn gốc
Hoa thược dược có nguồn gốc từ Mexico, sau đó được đưa sang Tây Ban Nha và dần dần được trồng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Thược dược có tên tiếng Anh là Dahlia, được đặt theo tên của nhà thực vật học Andreas Dahl. Ông đã đem giống hoa này vào Châu Âu năm 1788.
Trong các loài hoa cùng họ, mẫu đơn đứng đầu, thược dược đứng thứ hai. Mẫu đơn được tôn xưng là “hoa vương”, thược dược được coi là “hoa tướng”. Danh y Lý Thời Trân của Trung Quốc cũng đánh giá như vậy khi nói về tác dụng chữa bệnh của hai loài hoa này.
Hoa thược dược
Tuy chỉ là ‘hoa tướng’ nhưng hoa thược dược lại được biết đến trước cả hoa mẫu đơn. Tương truyền rằng, hoa thược dược đã được trồng rất phổ biến tại Trung Quốc từ hơn 3000 năm trước, khi mà người ta vẫn còn chưa hề biết đến sự hiện diện của hoa mẫu đơn.
Khi mới phát hiện ra mẫu đơn, người ta tưởng đó chỉ là một loài thược dược, nên đã gọi nó là “mộc thược dược”. Hai hoa này nhìn thoáng qua rất giống nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.
Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy cùng họ nhưng là hai cây khác nhau. Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu đơn là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm thuốc bổ huyết, sử dụng chủ yếu để bồi dưỡng cơ thể; còn mẫu đơn thuộc nhóm thanh nhiệt lương huyết, chủ yếu dùng khi cơ thể đã mắc bệnh.
Truyền thuyết hoa thược dược
Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của thược dược đã được danh y Hoa Đà phát hiện ra trong một tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết và tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc quanh nhà. Một hôm có người đem biếu ông cây hoa lạ, nói rằng có thể dùng chữa bệnh nhưng không rõ chữa được bệnh gì. Hoa Đà đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.
Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt, thơm như hoa hồng. Ông thử hái hoa sắc uống nhưng không nhận thấy có gì khác lạ. Ông lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng không phát hiện điều gì đặc biệt. Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng không có tác dụng chữa bệnh nên mấy năm liền, Hoa Đà không để ý đến nó nữa.
Hoa thược dược
Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng con gái khóc thút thít. Nhìn ra, ông thấy dưới ánh trăng mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc. Ông tự hỏi, không biết con gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ông khoác áo ra ngoài nhưng nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người nào nữa, chỗ cô gái đứng khóc chỉ còn một cây thược dược.
Hoa Đà đi vào và tự nhủ: “Cho dù nhà ngươi có linh tính thì bây giờ cũng đang là mùa thu, hoa đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được vào việc gì?”.
Nhưng ông vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại nghe tiếng khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô lại biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần khiến Hoa Đà vô cùng ngạc nhiên. Ông bèn đánh thức vợ đang ngủ say dậy kể lại chuyện.
Hoa thược dược
Bà nói: “Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử dụng làm thuốc cứu người, chỉ có cây bạch thược này bị bỏ quên, chắc là nó có nỗi oan ức”.
Hoa Đà bảo: “Tôi từng thử tất cả các bộ phận của nó thấy chả có tác dụng, vậy còn oan ức nỗi gì?”.
Bà vợ nói: “Ông mới thử những thứ trên mặt đất, còn rễ của nó thì sao?”.
Nhưng danh y gạt đi: “Hoa lá cành còn chẳng có gì đặc biệt, vậy thì còn thử rễ làm gì?”. Dứt lời, ông nằm xuống ngủ thiếp đi. Bà vợ suốt đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã thay đổi, không còn lắng nghe ý kiến của người khác như trước kia nữa.
Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng kinh, băng huyết rất nhiều. Không chờ Hoa Đà bằng lòng hay không, bà ra vườn đào vài rễ cây bạch thược đem rửa sạch rồi sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã hết đau, máu cũng không còn chảy nữa.
Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm kích: “Cảm ơn bà đã thức tỉnh ta, nếu không thì ta đã để mai một cây thuốc quý”.
Sau sự kiện đó, ông thử nghiệm và nhận thấy ngoài tác dụng giảm đau, cầm máu, rễ bạch thược còn có tác dụng dưỡng huyết và chữa được nhiều bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên bạch thược, sau đó Hoa Đà thêm chữ “dược” thành bạch thược dược.
Xem thêm